BÀI VIẾT NÓI VỀ HUN SEN RẤT HAY TRÊN BÁO Tiengdan.com THÁNG 6-2025
..
Đêm 5 tháng 8 năm 1952, một đứa bé ra đời tại làng Peam Koh
Snar thuộc tỉnh Kampong Cham, phía đông sông Mekong. Đứa bé được đặt tên là Hun
Bunall. Tên của cậu được thay đổi nhiều lần và lần cuối được đổi thành Hun Sen
khi cậu ta gia nhập du kích Cộng Sản Cambodia năm 1970.
Ngày 14 tháng 4 năm 1970, Hun Sen gia nhập Mặt Trận Đoàn Kết
Dân Tộc Cambodia (National United Front of Cambodia) thường được viết tắt là
FUNK để chống lại chính phủ Lon Nol thân Mỹ.
Năm 1974, Hun Sen chỉ huy một đơn vị với quân số khoảng hai
ngàn. Trong thời gian này ông ta biết lãnh đạo thực sự của phong trào FUNK
không phải là Sihanouk mà là Pol Pot. Chức vụ chính thức của Hun Sen là Tham
Mưu Trưởng trung đoàn và năm 1977 được phong lên chức Trung đoàn phó. Theo lời
Hun Sen ông ta đã sử dụng đơn vị này tấn công Lon Nol và sau đó tấn công Khờ Me
Đỏ.
Lúc 2 giờ sáng ngày 20 tháng 6 năm 1977, Hun Sen và một số
chỉ huy của trung đoàn đào thoát sang Việt Nam.
Sau khi Pol Pot bị lật đổ, Hun Sen, 26 tuổi và chưa xong bậc
trung học, được CSVN chọn làm Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Heng Samrin.
Tại tuổi 33, Hun Sen là thủ tướng trẻ nhất không chỉ riêng
Cambodia mà cả thế giới trong thời điểm đó.
Trong cuộc bầu cử 1993, Hun Sen thất cử trước đối thủ
Norodom Ranariddh nhưng ông ta không chịu nhường quyền. Hun Sen và Hoàng thân
Norodom Ranariddh chia sẻ quyền lực cho tới 1997.
Bằng một biến cố bạo động, Hun Sen lật đổ Norodom Ranariddh.
Sau thời gian lưu vong, Norodom Ranariddh về ứng cử lần nữa.
Trong cuộc bầu cử 1998, Hun Sen thắng cử. Norodom Ranariddh giữ chức vụ Chủ tịch
Quốc Hội nhưng Hun Sen nắm chặt quyền hành thủ tướng từ đó đến nay.
Mặc dù ít học, năm 1991, Hun Sen đã trình luận án tiến sĩ
dày 172 trang “Các đặc điểm chính trị tại Cambodia” tại Học Viện Chính Trị Quốc
Gia,Việt Nam.
Vợ của Hun Sen là bà Bun Rany, người Cambodia gốc Quảng
Đông, Trung Hoa, sinh năm 1954. Sau khi Sihanouk bị lật đổ, bà bí mật tham gia
FUNK và được Khờ Me Đỏ huấn luyện về y tế. Năm 1974, bà là giám đốc một bịnh viện
Khờ Me Đỏ và tại đây bà gặp Hun Sen. Mối tình đẹp nảy nở trong bịnh viện. Họ cưới
nhau đầu năm 1976 dù khi đó chàng thanh niên Hun Sen 24 tuổi đã bị mù một mắt.
Lý lịch của Hun Sen cũng giống như các lãnh đạo CS thay đổi
tùy theo thời thế. Một số nghiên cứu cho rằng ông ta tham gia Khmer Đỏ khá sớm,
khoảng 1967, nhưng Hun Sen phủ nhận và tự khai chỉ gia nhập vào năm 1970 đáp lời
kêu gọi của Quốc vương Norodom Sihanouk. Giống như nhiều lãnh đạo Cambodia có
quá khứ Khmer Đỏ khác, Hun Sen cố tình che giấu lý lịch CS của mình càng nhiều
càng tốt.
Luật sư Brad Adams, Giám đốc Khu vực Á châu của Human Rights
Watch, nhận xét Hun Sen là một kẻ có bản chất độc tài thô bạo không khác gì các
nhà độc tài trong cùng “câu lạc bộ 10 ngàn”, ám chỉ một nhóm gồm những nhà độc
tài thông qua bạo động, kiểm soát an ninh, dựa vào sự yểm trợ từ nước ngoài để
kéo dài quyền lực cai trị trên 10 ngàn ngày.
Sau sự sụp đổ của hàng loạt các nhà độc tài tại Tunisia, Ai
Cập, Libya và Yemen, Hun Sen là một trong số rất ít hội viên của “câu lạc bộ 10
ngàn” còn nắm được quyền hành.
Tên danh dự của Hun Sen là Samdech Akeak Moha Sena Padei
Techo Hun Sen dài không thua gì tên danh dự của nhà độc tài khát máu nhất Congo
là Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga.
Khi được hỏi liệu ông ta có lo ngại sẽ bị lật đổ như các nhà
độc tài Tunisia, Egypt, Libya, máu Khmer Đỏ trong người sục sôi lên và Hun Sen
trả lời: “Tôi chẳng những làm suy yếu đối phương mà còn tận diệt chúng… Nếu kẻ
nào nghĩ mình đủ mạnh để biểu tình, tôi sẽ đánh gục bọn chó đó và nhốt chúng
vào trong cũi”.
Hun Sen không chỉ đe dọa thôi nhưng trong quá khứ ông ta đã
trấn áp đối lập một cách thô bạo nhiều lần.
Trong năm 1991, khi các đại diện Liên Hiệp Quốc vào Cambodia
tổ chức tuyển cử, Hun Sen đã ra lịnh cho an ninh dưới quyền tàn sát trên 100 đảng
viên của một đảng đối lập ngay trước mắt của phái đoàn Liên Hiệp Quốc.
Một lần khác, vào năm 1997, Hun Sen ra lịnh cho cận vệ tấn
công bằng lựu đạn vào một buổi họp của lãnh tụ đối lập Sam Rainsy làm 16 người
chết và hơn 150 người bị thương. Cũng trong năm 1997, lo ngại bị thất cử, Hun
Sen tổ chức đảo chánh chống lại đảng Hoàng gia mà ông ta đã liên minh. Hàng
trăm người bị bắt và bị giết. Các nhân viên Liên Hiệp Quốc khi đào xác lên đã
khám phá phần lớn đã bị bắn vào đầu trong lúc đang bị còng tay và bị bịt mắt.
Những hình ảnh đó gợi lại cảnh tượng kinh hoàng của thời Pol Pot.
Đối với các thành phần tàn dư Khờ Me Đỏ, Hun Sen khuyến
khích các lãnh đạo cao cấp đầu hàng. Với quân số 50.000 thời Pol Pot, Khờ Me Đỏ
chỉ còn lại khoảng 1.000 vào năm 1997. Khieu Samphan và Nuon Chea đầu hàng vào
tháng 12 năm 1998. Hun Sen ân xá cho Ieng Sary.
Hun Sen và Trung Cộng
Nhiều người cho rằng Hun Sen ngã về phía Trung Cộng mới đây.
Điều đó không đúng. Khuynh hướng thân Trung Cộng của Hun Sen bắt đầu sau cuộc đảo
chánh đẫm máu 1997.
Cuộc đảo chánh đã làm ông ta mất uy tín trong các lãnh đạo
các quốc gia dân chủ Tây phương. Nhiều quốc gia đã ngưng viện trợ cho chính phủ
Hun Sen hay tiếp tục viện trợ nhưng đưa ra các điều kiện phải tôn trọng nhân
quyền.
Giống như Pol Pot trước đây, Hun Sen không còn đường nào
khác ngoài việc đi tìm sự ủng hộ từ phía Trung Cộng.
Dĩ nhiên giới lãnh đạo Trung Cộng nắm bắt cơ hội ngàn vàng
này. Từ năm 1997 đến năm 2005, Trung Cộng cung cấp cho chính quyền Hun Sen 600
triệu dollar qua đầu tư, viện trợ không hoàn lại, hủy bỏ nợ đến thời hạn trả. Từ
năm 2000, hàng loạt lãnh đạo cao cấp Trung Cộng lần lượt viếng thăm Cambodia.
Đáp lại, trong cùng thời gian, Hun Sen đã thăm viếng Trung Cộng
tất cả 6 lần. Hun Sen từng tuyên bố “Trung Quốc nói ít làm nhiều”. Viện trợ của
Trung Cộng không đặt ra các điều kiện nhân quyền trong khi nhân quyền lại là tiền
đề thảo luận với các nước dân chủ.
Trong bang giao quốc tế, chế độ Hun Sen nhiệt tình ủng hộ
các chính sách của Trung Cộng qua việc ngăn cấm các viên chức trong chính quyền
Cambodia thăm viếng Đài Loan. Ông ta còn họa theo Trung Cộng khi lên tiếng kết
án Mỹ trong vụ máy bay Mỹ ném bom lầm xuống tòa đại sứ Trung Cộng tại Belgrade
năm 1999.
Trong lãnh vực quân sự, Trung Cộng lần nữa đóng vai trò yểm
trợ tích cực như đã từng làm đối với chế độ Pol Pot.
Từ sau cuộc đảo chánh của Hun Sen năm 1997, Trung Cộng đã gởi
các trang bị quân sự cho cánh Hun Sen, xây dựng các doanh trại quân đội, sửa chữa
phi trường Kampong Chhnang. Hàng năm đưa 40 sĩ quan trong quân đội Cambodia
sang Trung Cộng huấn luyện. Năm 2011, Trung Cộng cho Cambodia vay 195 triệu
Dollar để mua một số lượng máy bay trực thăng không được tiết lộ của Trung Cộng.
Tháng Tám 2012, Trung Cộng viện trợ quân sự cho Cambodia thêm 19 triệu
dollar và sẽ giúp xây dựng các bệnh viện quân đội, trung tâm huấn luyện cho đạo
quân 140 ngàn của Hun Sen.
Đầu năm 2023, Hun Sen thăm Trung Cộng. Trong dịp này, Tập Cận
Bình cam kết “ủng hộ Cambodia bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, kiên quyết ủng
hộ Cambodia trong việc thúc đẩy đều đặn các chương trình nghị sự chính trị lớn
trong nước và phát triển kinh tế xã hội, đồng thời kiên quyết phản đối các thế
lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Cambodia”.
Về phía Hun Sen, ông ta khẳng định sự ủng hộ chính sách “Một
Trung Quốc” của Trung Cộng.
Năm 2022, trong cương vị Chủ tịch ASEAN, Hun Sen lại một lần
nữa chống lại việc ASEAN ra một thông báo chung phê bình chủ trương quân sự hóa
Biển Đông của Trung Cộng.
Đối với nội bộ Cambodia, càng đóng vai trò độc lập với CSVN
bao nhiêu, Hun Sen, người vẫn còn bị phe đối lập tại Cambodia tố cáo là bù nhìn
Việt Nam, càng được sự ủng hộ của nhân dân Cambodia bấy nhiêu.
Thế hệ Cambodia được CSVN cứu sống năm 1979 đã già và nhiều
trong số họ đã chết. Thế hệ trẻ lớn lên chỉ biết đến Việt Nam là kẻ thù truyền
kiếp của dân tộc Khmer.
Lời tuyên bố của Hun Sen về cuộc tranh chấp Biển Đông giống
như trích nguyên văn từ bản tuyên bố của Trung Cộng: “Cuối cùng đó không phải
là vấn đề đối với toàn bộ ASEAN. Nó là vấn đề song phương giữa các nước liên
quan mà họ cần phải nói chuyện với nhau”.
“Thảo luận song phương” là chủ trương của Trung Cộng từ khi
cuộc tranh chấp mới bắt đầu nhiều năm trước.
Nhiều bình luận từ phía Việt Nam có phần trách Hun Sen đang
tâm phản bội những kẻ đã từng cứu vớt, bảo bọc và đưa y lên tột đỉnh danh vọng
và quyền lực như hôm nay. Chính Hun Sen cũng thừa nhận, không có CSVN, không những
con mắt trái mà cả mạng sống của ông ta chưa chắc đã còn.
Nhưng ngọn gió quyền lực và danh lợi đang thổi về hướng Bắc.
Đối với Hun Sen việc chọn lựa đi theo Trung Cộng không chỉ vì quyền lợi quốc
gia mà còn giữ được cả tài sản kếch xù ăn cắp từ máu xương của đồng bào ông ta
suốt 38 năm qua.
Không có chỗ cho các yếu tố đạo đức, ơn nghĩa trong bàn cờ
chính trị.
Hơn ai hết Hun Sen biết chính bản thân y trước đây khi được đặt
vào chức Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi 26 cũng chỉ là con cờ chính trị của CSVN
mà thôi. Thời thế đã đổi thay và con người chính trị của ông ta thay đổi theo
thời thế.
Sự kiện quân đội Trung Cộng đồn trú tại căn cứ hải quân Ream
Naval Base thuộc lãnh thổ Cambodia trên Vịnh Thái Lan (Gulf of Siam) là một mối
đe dọa trực tiếp cho sự ổn định trong khu vực Thái Miên Việt cũng như cả Biển
Đông.
Trung Cộng với một giọng điệu cố hữu là bác bỏ nhưng các
không ảnh cho thấy các cơ sở được xây dựng trước đây do hợp tác với Mỹ từ năm
2010 đã bị phá hủy và các cơ sở mới đang được xây.
Theo nhiều nguồn tin, năm 2017 một hiệp ước bí mật giữa Hun
Sen và Tập đã được ký kết, qua đó, Trung Cộng có quyền sử dụng căn cứ Ream
Naval Base ba chục năm. Hun Sen từ chối yêu cầu của Mỹ được vào xem tận mắt căn
cứ.
Tại Hội Nghị về Tương Lai Á Châu Hun Sen phát biểu: “Thành
thật mà nói, nếu không phải Trung Quốc tôi có thể dựa vào ai khác? Hãy nói thật”.
Khi đứng về phía Trung Cộng, Hun Sen được nhiều mối lợi:
1. Giảm được áp lực trong thành phần Cambodia quá khích đang
khai thác xung đột lịch sử giữa Việt Nam và Cambodia từ thời nhà Nguyễn, và kết
án y chỉ là bù nhìn của CSVN.
2. Trung Cộng sẽ gia tăng viện trợ kinh tế và tiếp tục là nước
có quan hệ kinh tế thương mại lớn nhất với Cambodia.
3. Bảo vệ được chiếc ghế thủ tướng, quyền lợi, tài sản mà luật
sư Brad Adams thuộc tổ chức Human Rights Watch và Global Witness đã ước tính
lên đến 500 triệu đô la.
4. Trung Cộng bao vây Việt Nam từ hướng đông và dùng tiền để
mua chuộc Cambodia bao vây Việt Nam từ hướng tây. Trong một xung đột võ trang,
Việt Nam phải đương đầu với hai kẻ thù có tinh thần dân tộc quá khích vô cùng
nguy hiểm.
Nhưng Hun Sen cũng biết khôn ngoan trước thời cuộc quốc tế
và sợ mất lòng Mỹ. Hun Sen chọn bỏ phiếu ủng hộ Ukraine “đòi Nga rút ngay lập tức,
hoàn toàn và vô điều kiện tất cả các lực lượng quân sự của mình khỏi lãnh thổ
Ukraine trong các biên giới được quốc tế công nhận” trong nghị quyết quan trọng
của Đại Hội Đồng LHQ ngày 2 tháng 3 năm 2022 nhưng chọn bỏ phiếu trắng trong
nghị quyết ít quan trọng hơn loại Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ngày 7
tháng 4 năm 2022.
Với chọn lựa này, Hun Sen muốn nói lớn cho Mỹ nghe rằng (1)
Cambodia không tham khảo Tập Cận Bình trước khi bỏ phiếu; (2) Cambodia chưa
quên vai trò chính yếu của Mỹ trong công cuộc phục hồi Cambodia sau thời kỳ Pol
Pot diệt chủng; (3) Cambodia nhận thấy vai trò mới của Mỹ trong bàn cờ chính trị
thế giới, nhất là Á Châu và muốn có một sự cân đối trong mặt trận ngoại giao
trong thời gian tới.
Sau cuộc bầu phiếu tại Liên Hiệp Quốc, tòa đại sứ Mỹ tại
Cambodia ghi nhận lãnh đạo Cambodia đã có lập trường cứng rắn chống lại hành động
xâm lược Ukraine của Nga.
Tháng 12 năm 2022, Hun Sen viếng thăm tòa đại sứ Mỹ tại Nam
Vang lần đầu tiên. Không có thù vặt trong chính trị. Quan hệ giữa hai quốc gia
không chỉ đặt cơ sở trên quyền lợi chung mà còn trên quan điểm của mỗi quốc gia
trước một vấn đề chung.
Mặc dù ghi nhận sự đóng góp của Hun Sen, cho tới nay các
chính phủ Mỹ vẫn xem Hun Sen như là một lãnh đạo độc tài có mối quan hệ mật thiết
với Trung Cộng.
Trung Cộng dùng Hun Sen để bao vây Việt Nam
Trong phần này, người viết tạm gác qua bên những vấn đề thuộc
phạm vi tư tưởng, ý thức hệ để tập trung vào lãnh vực địa chính trị
(geopolitics).
Bao vây, cô lập để kiểm soát Việt Nam, một vùng độn sinh tử ở
phía Nam, là một phần quan trọng trong chiến lược Á Châu Thái Bình Dương trường
kỳ của Trung Cộng.
Chiến lược này không chỉ ra đời trong thời kỳ Tập Cận Bình
mà có từ thời Mao qua Đặng và nhiều thời kỳ lãnh đạo đảng CSTQ khác.
Học bài học chiến tranh Triều Tiên, Mao không muốn lôi kéo Mỹ
vào một cuộc đối đầu trực diện lần nữa. Tuy nhiên, Mao đã chuẩn bị việc đưa
quân Trung Cộng ồ ạt vào miền Bắc Việt Nam để đánh Mỹ nếu cần.
Theo sử gia Qiang Zhai, tác giả của tác phẩm sử học China
and the Vietnam Wars, 1950-1975, Mao ra lịnh “chuẩn bị đề phòng chiến tranh với
Hoa Kỳ. Ông ta đã chuyển các ngành công nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu
ở vùng ven biển phía đông Trung Quốc đến vùng núi phía tây nam Trung Quốc. Mao
ra lịnh cho dân chúng xây dựng các hầm trú ẩn phòng không trên khắp Trung Quốc”.
(Qiang Zhai, China Contributed Substantially to Vietnam War Victory, Wilson
Center, January 1, 2001)
Lê Duẩn cũng nghĩ tới việc ít nhất nửa triệu quân Trung Cộng
sẽ có mặt tại miền Bắc nếu Mỹ phát động chiến tranh toàn diện. Lê Duẩn nói với
Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh ngày 13 tháng 4, 1966: “Hiện nay có hơn 100.000
quân Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ bất cứ khi nào có một biến cố
trầm trọng xảy ra, có thể cần tới 500.000. Sự giúp đỡ này là từ một nước hữu
nghị. Chúng tôi nghĩ rằng với tư cách một nước xã hội chủ nghĩa anh em, Trung
Quốc có thể làm điều đó.” Phiên họp này có sự hiện diện của Nguyễn Duy Trinh, Bộ
trưởng Bộ Ngoại Giao VNDCCH. Phía Trung Cộng, ngoài họ Đặng, còn có Thủ tướng
Chu Ân Lai và Phó Chủ tịch đảng CSTQ Khang Sinh. ( Digital History, Document
12. Zhou Enlai, Deng Xiaoping, Kang Sheng, Le Duan, Nguyen Duy Trinh, Beijing,
13 April 1966)
Chứng minh và giải thích hơi chi tiết để thấy giữ chặt sân
sau Việt Nam trong gọng kìm là ưu tiên số một của Trung Cộng, những khẩu hiệu
“tinh thần quốc tế vô sản”, “xã hội chủ nghĩa anh em” hay hiện nay như “16 chữ
vàng”, “cùng chung vận mệnh” chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền.
Sau cuộc Chiến Tranh Biên Giới với Việt Nam 1979 Đặng Tiểu
Bình tiếp tục thúc đẩy bốn hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và
khoa học công nghệ. Để phù hợp với dòng phát triển của nhân loại trong quan hệ
quốc tế, Trung Cộng buộc phải tham gia các thỏa hiệp trong tinh thần của chủ
nghĩa đa phương (multilateralism), ngoại trừ đối với Việt Nam. Riêng với Việt
Nam, Trung Cộng tiếp tục bao vây, cô lập qua nhiều hình thức.
Trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, ngày 4 tháng 11 năm
2002 Trung Cộng cùng các nước ASEAN ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Nam Trung Hoa (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea, viết
tắt là DOC). Tuy nhiên đó chỉ là những thỏa thuận tổng quát, chung chung để “khẳng
định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc,
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở
Đông Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của
pháp luật quốc tế” (Declaration On The Conduct Of Parties In The South China
Sea, ASEAN, May 14, 2012).
Những cam kết đó của Trung Cộng chỉ là đầu môi chót lưỡi.
Trong thực tế, Trung Cộng tránh né các hội nghị quốc tế nhằm giải quyết các
xung đột, thay vào đó, họ áp dụng chính sách “chia để trị” đối với từng thành
viên ASEAN tùy thuộc vào nhiều yếu tố và họ đã chứng tỏ khá thành công. Ba lý
do chính cho việc từ chối tham gia các diễn đàn quốc tế về Biển Đông (1) Trung
Cộng không có đủ bằng chứng cụ thể, khoa học và tính thuyết phục để thắng bằng
công pháp quốc tế, (2) ASEAN là một tổ chức hợp tác vì quyền lợi riêng của mỗi
quốc gia thành viên hơn là vì quyền lợi chung lâu dài mà cả khối cùng hướng tới,
(3) trong số 11 quốc gia thuộc ASEAN chỉ có 5 nước gồm Brunei, Nam Dương, Mã
Lai, Philippines và Việt Nam trực tiếp liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển
Đông và sáu nước còn lại không liên quan trực tiếp.
Mặc dù vẫn có nhiều bất đồng giữa hai nước về chủ quyền trên
Biển Đông, hiện nay chỉ còn Việt Nam và Philippines là gần gũi nhau trong việc
đối đầu với Trung Cộng. Chín quốc gia hội viên còn lại vì quan hệ kinh tế
thương mại với Trung Cộng nên chọn ủng hộ Trung Cộng như trường hợp Campuchia,
Lào. Số còn lại hoặc có thái độ đứng ngoài cuộc tranh chấp hoặc tránh phê bình
trực tiếp Trung Cộng.
Hun Sen tham nhũng
Vi trùng tham nhũng sinh sản rất nhanh trong các chế độ độc
tài, nơi quyền lực tập trung trong tay một nhóm nhỏ người nắm quyền cai trị.
Tham nhũng là một trong những căn bịnh đang đè nặng lên xã hội Cambodia và gia
đình bị tố cáo tham nhũng nhiều nhất là Hun Sen. Mặc dù chỉ làm việc cho chính
phủ, gia đình Hun Sen có một đời sống sung túc hơn bất cứ người dân Cambodia
nào.
Sở thích của Hun Sen là sưu tập đồng hồ. Những đồng hồ ông
ta đeo nhìn thấy được qua ảnh trị giá vào khoảng 13 triệu dollar. Chẳng hạn, một
Patek Philippe Grandmaster Chime 5175 trị giá khoảng 2.700.000 dollar trong lúc
vợ ông đeo chiếc đồng hồ Richard Mille RM037 trị giá 270.000 dollar. Hun Sen
không che giấu sở thích đeo đồng hồ quý hiếm. Điều đó không sao nhưng tiền đâu
để mua khi lương thủ tướng của Hun Sen là 1.150 dollar một tháng nếu không phải
tiền do tham nhũng tích tụ được sau 38 năm cầm quyền.
Theo lời của luật sư Brad Adams thuộc tổ chức Human Rights
Watch, mười năm trước, một viên chức Bộ ngoại giao Mỹ đã tiết lộ cho ông biết
tài sản của Hun Sen được ước lượng vào khoảng 500 triệu Dollar. Không ai biết
chính xác giá trị bất động sản và dự trữ dollar, vàng bạc của Hun Sen và gia
đình tại các ngân hàng ngoại quốc hiện nay.
Không có CSVN, Hun Sen không chỉ mù một mắt mà đã mồ hoang mả
lạnh từ lâu rồi, nhưng với bản chất bạo động, háo danh, tham vọng quyền lực sẵn
có của người cựu Khmer Đỏ, Hun Sen rất dễ dàng bị Trung Cộng khích động và mua
chuộc.
Tất cả những oan nghiệt đó, dùng chữ của Hun Sen trong luận
án tiến sĩ chính trị của ông ta, chỉ vì cùng “từ một bào thai” Cộng sản.
_____
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét